1. Đẻ đất đẻ nước là sử thi thần thoại.
Hiện nay nhìn chung các nhà nghiên cứu quan tâm đến tác phẩm này đều cho rằng: Ở dạng ban đầu, Đẻ đất đẻ nước chỉ mới là sự kết nối một số thần thoại suy nguyên có cùng nguồn Mường-Việt cổ từ thời trước Hùng vương. Đến khi trình độ tư duy tình cảm thẩm mĩ Mường cổ phát triển cao trong giới hạn đặc thù văn hóa tộc người,thì Đẻ đất đẻ nước đã được điều chỉnh theo chiều hướg phát triển thêm các các sự kiện các biến cố mới bằng cách so sánh cái đã có và cái chưa có, cái bên trong và cái bên ngoài. Năng lực tư duy này tương ứng với một trình độ của ý thức tự giác tộc người,như trong tác phẩm cho thấy: Cái ý thức tự giác tộc người đã chuyển hóa thành niềm cộng cảm thiêng liêng. Theo đó vùng diễn xướng Đẻ đất để nước dần được mở ra trên một khu vực quần cư rộng lớn từ trung tâm văn hóa Hòa Bình đến Thanh hóa, Nghĩa Lộ, Sơn la…vốn là những miền đất ngày nay cư dân Mường đang định cư đông đảo và được đồng bào hình dung là quê hương xứ sở qua những câu ca và truyện kể.Và thế là từ đây các yếu tố thần thoại Mường cổ tiếp tục được thu hút vào tác phẩm bằng cách sàng lọc lại theo tiêu chuẩn duy lí trong tất cả các mối quan hệ hiện thực, phản ánh niềm mong mỏi được diễn lại trên một mức độ cao hơn về cái hiện thực đã từng được tái tạo hồn nhiên của cộng đồng trong kí ức. Theo quy luật chung, sử thi Đẻ đất đẻ nước tiếp chân thần thoại Mường-Việt cổ đã được hoàn thiện từ sau sự kiện Đẻ trống đồng…xứ Mường hoàn chỉnh lãnh thổ và Đức vua được rước về Đồng Chì Tam Quan Kẻ Chợ.Người người đi tiễn vua. Vào lúc chuẩn bị lên đường,vua nghe có tiếng con gà gáy “ Đừng quên nơi đẻ si, đẻ mường, đẻ nước, đẻ lửa, đẻ nhà…nơi quê cha đất tổ”.Nhà vua bẻ một ngọn lá rắc xuống lòng đường, nói câu chúc phúc đẹp như lời ngọc ý hoa trong cảnh tượng mặt trời đang mọc sáng mường sáng nước.Song ở Đẻ đất đẻ nước dạng trên cùng như ngày nay chúng ta tiếp nhận, còn thấy có các yếu tố đối kháng gay gắt giữa nhà lang và dân chúng. Đó chỉ là những lớp xã hội- lịch sử muộn màng.Trong tính sử thi thần thoại đích thực, Đẻ đất đẻ nước tuyệt nhiên chưa có dấu ấn văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ. Nó được bắt đầu từ chỗ phải bắt đầu và chứa đựng một loạt biến cố bao trùm toàn bộ lịch sử Mường cổ đến khi xã hội Mường đã chuyển sang chế độ thị tộc phụ quyền một cách sâu sắc.Đương nhiên đó là lịch sử huyền thoại được sáng tạo bởi tư duy tình cảm thẩm mĩ của con người thời đại sử thi.Đó là cách đo thành quả sáng tạo văn hóa buổi đầu của con người bằng kích thước vũ trụ khi mà niềm kiêu hãnh của họ đang trào dâng.Đấy chính là cơ sở hiện thực của ý niệm để khêu gợi trí tưởng tượng hoành tráng, tạo nên đặc điểm của một loại cảm hứng vô cùng phóng khoáng, một loại biểu tượng hết sức rộng lớn, một loại tính cách đặc biệt kì vĩ, một loại ngôn ngữ hết sức khoa trương, mà tổng hợp lại tất cả những yếu tố ấy tạo nên đặc trưng thẩm mĩ sử thi.Đó là nguyên cớ tiền đề sáng tạo Đẻ đất đẻ nước.Có một nhà nghiên cứu văn hóa Việt nam đưa ra một ý kiến lý thú về khái niệm đất nước trong tiếng Việt: Đất nước là đất và nước nhưng cũng là đất nước. Hiểu được như thế, ý nghĩa tư tưởng thẩm mĩ của Đẻ đất đẻ nước càng có một vị trí đặc biệt trong lịch sử văn hóa và văn học dân tộc.
2.Giá trị văn hóa của Đẻ đất đẻ nước.
Trước hết Đẻ đất đẻ nước là một công trình văn hóa nguyên hợp.Giá trị văn hóa, bản chất văn hóa của sử thi thần thoại này đã được khám phá nhiều mặt.Các thành tựu nghiên cứu liên ngành đã trợ giúp đắc lực cho việc nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm Đẻ đất đẻ nước từ góc nhìn văn hóa trong nhà trường.Song đây không phải là vấn đề đặt ra để bàn kĩ trong bài viết này. Bởi lẽ đương nhiên do đặc trưng môn học, Đẻ đất đẻ nước trong nhà trường chủ yếu được tìm hiểu từ góc độ ngữ văn dân gian. Song do bản chất của phôn cơ lo nghệ thuật ngôn từ( văn học dân gian ) vừa là văn học vừa là văn hóa nên khi giảng dạy, người thầy giáo vừa phải đặt tác phẩm vào một trường hoạt động thực tiễn trong tính nguyên hợp của thể loại( môi trường văn hóa), vừa phải đặt các yếu tố nghệ thuật ngữ văn trong văn bản tác phẩm vào một trường liên tưởng ngữ nghĩa của cộng đồng tộc người Mường( giải mã văn hóa).Theo hướng này,có thể xem tác phẩm như là một bức tranh ghép mảnh các huyền thoại hư cấu lịch sử một cách hoành tráng.Nó được sáng tạo theo cảm hứng cội nguồn mang ý tưởng “ chim tìm tổ,người tìm tông” mà ý tưởng ấy còn tràn đầy âm hưởng sử thi, vừa có tính dân tộc cụ thể, vừa có tính nhân loại phổ quát.Ở đó hiện ra toàn bộ sức sống bền bỉ và sức mạnh hòa hợp của toàn bộ cộng đồng Mường cổ , được tạo dựng từ cuộc đối thoại đầu tiên giữa con người với vũ trụ chứa đầy bí ẩn , đến khi họ bắt đầu ý thức được khả năng vô hạn của mình trên con đường khai sáng.Ở đó không khí Mường cổ, cuộc sống Mường cổ đã trở thành kỉ niệm riêng của toàn dân tộc cứ vươn dài trải rộng từ lớp này đến lớp khác, tràn qua mọi tình thế thách thức của thực tại đã từng đòi hỏi cả cộng đồng phải đáp ứng.Ở đó như vẫn còn nguyên trong sâu thẳm tâm hồn của người xưa là những niềm cảm khái và biết ơn,có cả vinh quang và cay đắng song cảm hứng bao trùm vẫn tràn đầy lòng tự tôn,tự hào. Đó là lịch sử sáng tạo các giá trị văn hóa Mường cổ đã được tái hiện lại một cách thẩm mĩ từ trong mạch nguồn của một thứ tưởng tượng còn trong trẻo như những giọt nắng đầu tiên vừa tỏa chiếu, những hạt lúa đầu tiên vừa căng sữa nhú mầm. Có thể gọi đó là những giọt tâm hồn, những hạt trí tuệ Mường cổ đã lắng kết đến độ có sức tập hợp gọi đàn.
3.Giá trị văn học của Đẻ đất đẻ nước.
Giá trị ngữ văn dân gian của của Đẻ đất đẻ nước có thể được xem như là những yếu tố hình thức mang tính quan niệm và nó đã thật sự là kết quả sáng tạo mang đặc trưng mĩ học sử thi thần thoại.Trong mục sau,khi thử đưa ra một cách đọc-hiểu Phần mở đầu của tác phẩm được trích giảng trong sách giáo khoa hiện hành,chúng ta sẽ khảo nghiệm kết luận này.Ở đây bài viết lược điểm các giá trị văn học của tác phẩm qua những tiêu chí phổ quát.Đó là kiểu mầu nhân vật anh hùng văn hóa Lang Cun Cần và phân thân của nhân vật này là Lang Cun Khương. Lang Cun Cần tuy có nguồn gốc lai lịch thần kì nhưng lại sống một cuộc đời thường, đi săn , quăng chài thả lưới và biết nuôi lợn để thết khách.Tuy nhân vật này có địa vị thiên quý nhưng vẫn có sai lầm để cả mường nước phải cán ngăn;tuy có pháp thuật trấn ma quỷ và giao cảm được cả với trồi đấtvà thần linhđể xây dựng cõi người nhưng các công việc trọng đại này vẫn phải được thực hiên qua các nhân vật trung gian.Những ý muốn lớn và các hoạt động khai sáng cộng đồng Mường của người anh hùng được hư cấu kì ảo và lí thú, song cái hạt nhân hợp lí bên trong các sự kiện vẫn nổi đậm. Hình tượng Lang Cun Cần là một kiểu mẫu nhân vật sử thi thần thoại,kiểu anh hùng hoạt động với vai trò của người xây dựng thế giới chứ không đóng vai trò của một đấng sáng tạo siêu nhiên.Đương nhiên , Lang Cun Cần là một anh hùng văn hóa của thời đại sử thi nên tuổi của “chàng”cũng được tính theo quan niệm sử thi,kéo dài hàng vạn năm.Tính không thuần nhất của nhân vật này có nguyên nhân từ sự không thuần nhất trong cấu trúc tác phẩm. Kiểu tư duy thẩm mĩ sử thi Mường còn được biểu hiện qua hệ thống các chi tiết trùng điệp vốn là thủ pháp đặc trưng trong nghệ thuật sử thi thế giới,là thành tố ưa dùng trong các cấu trúc đặc biệt hoành tráng.Đó còn là cả một hệ thống từ ngữ đặc biệt giầu tính tượng hình tượng thanh với rất nhiều hình ảnh ví von so sánh đa chiều, vừa cụ thể theo tiêu chuẩn tôn trọng thực tiễn Mường một cách hồn nhiên, vừa gợi cảm theo những mối liên hệ kì thú giữa trí tưởng tượng sử thi vốn không bao giờ có giới hạn với cái nền hiện thực miền núi phóng khoáng đã nhuần thấm sắc thắm tâm hồn con người ở một thời còn nguyên sơ nơi thâm sơn cùng cốc.Đương nhiên cái vẻ đẹp đích thực của ngôn ngữ kể chuyện vần vè theo nhịp chẵn ở đây còn có sự chế định của môi trường diễn xướng mo tlêu của tộc người Mường, đáp ứng những chức năng sinh hoạt thực hành tinh thần hết sức đa dạng của nó.Đó là thứ ngôn ngữ đã mang tính thiêng, phản ánh chức năng tộc người của văn hóa.Muồn cảm nhận được cái hay cái đẹp trong kiểu nghệ thuật lời văn như thế, cần phải đọc văn bản trong diễn xướng.Cuối cùng còn một vấn đề đặt ra ở đây là: Tại sao lại có tên truyện Đẻ đất đẻ nước( Tẻe tâcl tẻe nảc )? Có lẽ tất cả các dân tộc anh em của cộng đồng Việt Nam đều có những cách nói mang bản sắc riêng nhưng không phải dân tộc nào cũng còn lưu giữ được dấu ấn cổ xưa trong các ngôn bản nghệ thuật.Vì thế,cái tên Đẻ đất đẻ nước của sử thi Mường là một trường hợp hết sức độc đáo và còn có tính độc đáo duy nhất ở chỗ nó là một kết quả sáng tạo tập thể.Trong cái lạ của nhan đề này đã bảo tồn được cả cái hay cái đẹp trong tính nguyên hợp của ý nghĩa tư tưởng thẩm mĩ.Khái niệm “đẻ” ghép với “đất” và “nước” chứa đựng một quan niệm đầy vẻ nguyên sơ thô dã, nhưng lại được trình bày dưới một thực tại khách quan có vẻ đoan trang trí tuệ. Thực ra, ở vào cái thuở cổ xưa xa xăm mù mịt, người Mường cổ cũng như nhân loại đều đã từng “ngây thơ hồn nhiên” cho rằng vạn vật cũng như con người đều do một lực lượng nào đó chửa đẻ mà thành!?Con người sinh con đẻ cái , còn những ông thần này, bà thần nọ thì đẻ ra cả vũ trụ mêng mông, cả mặt đất khổng lồ núi non đồng ruộng và cả vạn vật(…….).Câu chuyện Đẻ si-hình tượng cây vũ trụ- là một thí dụ.Con người nhờ đó mà có được cuộc sống như họ đang có. Phải có cuộc Đẻ đất thì thế giới này mới có đàn ông và đàn bà,mới có con gà có cựa, dây dưa biết leo, cây pheo có gai có ngọn. Phải có cuộc Đẻ nước thì con trâu mới không còn phải nhai đất cóng, con người mới không còn phải uống nước sương.Ý tưởng thì thật to tát nhưng mà hình ảnh diễn tả thành quả thì lại rất mực hồn nhiên bộc trực và vì thế nó biểu hiện rất rõ cái nét bản sắc tâm hồn Mường đặc biệt thật đáng yêu.Phải có những cuộc Đẻ cây si, Đẻ mường, Đẻ người, Đẻ năm tháng, Đẻ cả trống đồng…thì mọi việc mường nước mới yên ổn, chẳng còn thấy bóng giặc,chẳng còn vấp nạn ma, chỉ còn thấy đàn cò bay lượn, thấy đàn bò đi ăn, thấy con trâu giữa bãi, thấy con gái vác nước, thấy đàn nai chạy rong…Sau hết hết mọi cuộc đẻ,xứ Mường mới trở nên một trật tự hài hòa.Các thế hệ nghệ sĩ dân gian Mường đã sáng tạo ra cả một thế giới hiện thực trần thế thông qua hàng loạt motif diễn tả những cuộc chửa đẻ mang tầm vóc vũ trụ. Đó chính là giá trị đặc sắc chỉ có trong sử thi-mo.