I. CUỘC ÐỜI, THỜI ÐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, tại làng Hoàng Xá, huyện Ý yên Nam Ðịnh. Lớn lên sống ở làng Yên Ðỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông Mất ngày 24/2/1909.
Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học.
Năm 1864, Nguyễn Khuyến đi thi Hương và đỗ giải nguyên ở trường Nam Ðịnh.
Năm 1871, Thi Hội lần hai, đỗ Hội nguyên và thi Ðình đỗ Ðình nguyên. Ông từng thi đỗ Tam nguyên nên người ta gọi Nguyễn Khuyến là Tam nguyên yên Ðỗ và làm quan dưới riều Tự Ðức.
Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân.
Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên.
Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau . Có bài tác giả viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ngược lại, ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó xác định vì nó rất điêu luyện.
Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình. Còn trong thơ chữ Hán thì hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói trên hai lĩnh vưcï Nguyễn Khuyến đều thành công.
Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.
Lúc này Nam kỳ rơi vào tay giặc Pháp. Năm 1882, Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, chúng tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã.
Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc và cũng không cam tâm làm tay sai cho Pháp nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ.
II. NỘI DUNG THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN:
1.1. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Khuyến:
Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Khuyến trước hết gắn kiền với tư tưởng trung quân. Ðây là một tư tưởng yêu nước hết sức chân chính tiến bộ. Nguyễn Khuyến vừa là nhà nho vừa là một ông quan từng hưởng bổng lộc của triều đình nên tư tưởng trung quân đậm nét. Trong Di chúc, ông thể hiện rõ quan điểm của mình:
Sống giữa thời kỳ nước mất nhà tan, Nguyễn Khuyến không đành nhìn đất nứơc rơi vào tay giặc, lại không cam tâm ở lại triều đình để làm bù nhìn nên ông quyết định xin cáo quan về ở ẩn. Lòng Nguyễn Khuyến từng dạt dào bao ý định chua xót về quyết định này:
Dịch nghĩa:
Về sau, thời cuộc biến chuyển, nhiều người tiếp tục từ quan. Nguyễn Khuyến thấy rất rõ họ không phải là kẻ bất tài, mà trái lại, đó là những kẻ dũng thoái :
Dịch nghĩa:
Sau khi cáo quan, Nguyễn Khuyến sống ở làng quê và xem quê hương như chiếc nôi, chỗ dựa vững chắc ch cuộc sống bình dị của mình. Ông sống khiêm tốn, trong sạch, giữ tiết tháo, chan hòa với mọi người. Ông thường làm các bài thơ ngâm vịnh ca ngợi vẻ đẹp của các loai hoa, ca ngợi công dụng các loài cây, qua đó muốn nói đến cái đức của mình.
Nguyễn Khuyến còn nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn của con người nhằm khẳng định phẩm chất trong sạch của ông. Ông quan niệm:
Lời ca ngợi tiết tháo của người đàn bà đáng thương trong bài thơ Mẹ mốc của Nguyễn khuyến có cái gì giống như sự quyết tâm của nhà thơ:
Nguyễn Khuyến là người coi trọng danh dự và khí tiết nên nhiều lần nhà thơ từng trăn trở về vấn đề này:
Dịch nghĩa:
Có thể nói, hành động ở ẩn của Nguyễn Khuyến cũng là cách để nhà thơ giữ phẩm chất của mình. Nhiều bài thơ tiêu biểu có tính chất triết lý cao: Di chúc, Vườn Bùi chốn cũ, Vịnh cây tùng, Cây lược đồi mồi, Mẹ Mốc, Xuân dạ lân nga, nhân tặng nhục, Tiểu thán…
1.2. Sự quan tâm lo lắng cho đất nước:
Thể hiện qua nỗi đau của nhà thơ khi không làm được gì để thay đổi thời cuộc. Lời thơ thường đượm buồn, đầy nước mắt khi nói về đất nước:
Hình ảnh quê hương đất nước xuất hiện trong thơ ôngkhi trực tiếp, khi gián tiếp, khi cụ thể nhưng đều dưới dạng trữ tình ảm đạm của nhà thơ:
Nhà thơ từng mượn tiếng cuốc kêu để thể hiện tâm trạng nhớ nước da diết, khắc khoải của mình. Bài thơ Cuốc kêu c ảm hứng như một lời nỉ non tâm sự, từng làm xao xuyến tâm hồn bao thế hệ khi gợi nhớ non sông.
Nói chung, âm điệu trong phần lớn thơ trữ tình của Nguyễn Khyến là buồn. Nghe tiếng hát giữa đêm khuya hay tết đến, xuân về đều khiến nhà thơ buồn tê tái:
2.1.Ðối với thực dân Pháp:
Ðả kích những việc làm gây tiếng vang ầm ĩ lúc bấy giờ, lên án những thủ đoạn bóc lột sức người, sức của của nhân dân. Bọn chúng đã đẩy hàng vạn người dân vô tội đến chốn ma thiêng nước độc. Bài thơ Hội Tây, Hoài cổ, Văn tế Cơ ri vi e0â… đã phản ánh thực trạng đó bằng bút pháp hiện thực trào phúng sâu sắc:
2.2. Ðối với bọn quan lại, bọn me Tây, gái điếm:
Nguyễn Khuyến từng làm quan nên đã thấy rõ hiện thực quan trường và thế giới khoa bảng nói chung là đổ nát và thảm hại.
Ngòi bút ông đã vạch trần nhiều mặt xấu xa thối nát của bọn quan lại nào là bất tài, vô dụng, dốt nát chỉ là thứ phỗng đá không hơn không kém, trơ trơ trước sự nguyền rủa của dân.
Thái độ của Nguyễn Khuyến rất dứt khoát. Ông mắng chúng không kiêng nể. Bằng lối nói mát chửi mát theo kiểu Việt Nam Nói ngọt mà lọt đến xương, Nguyễn Khuyến đả kích, châm biếm xỏ ngầm rất thâm độc. Thậm chí khi cần, ông cũng chuyển roi quất mạnh bằng các biện pháp nghệ thuật độc đáo như chơi chữ, nói láy, dùng từ đa nghĩa, dùng âm của chữ Hán chuyển sang từ Việt.
Các bài thơ tiêu biểu: Ông phỗng đá, Lời vợ người hát chèo, Hỏi thăm quan tuần bị mất cướp, Bồ tiên thi, tặng ông Ðốc học Hà Nam đều là những bài thơ vạch mặt chỉ tên những tên quan bất tài, hống hách bằng thái độ châm biếm tố cáo sâu sắc.
Trong bài thơ chữ Hán Quá quận công Hữu Ðộ sinh từ hữu cảm là thái độ khinh bỉ, mỉa mai của Nguyễn Khuyến đả kích tên Nguyễn Hữu Ðộ, sau khi hắn chết, đi qua sinh từ của hắn, nhà thơ nghĩ:
Dịch nghĩa:
Nhưng có lẽ đả kích bọn quan lại cay độc nhất là khi nhà thơ liệt chúng ngang hàng Vợ bợm chồng quan danh phận đó (Ðĩ Cầu Nôm) dễ làm ta liên tưởng đến câu tục ngữ mèo mả gà đồng, là những tên không ra gì.
Ðặc biệt, ngòi bút của Nguyễn Khuyến tỏ ra không khoang nhượng khi viết về bọn me Tây, gái điếm. Trong một vế câu đối Mừng cô Tư Hồng ông viết:
Có tàn, có tán, có hương án thờ vua danh giá lẫy lừng ba mươi sáu tỉnh.
Ở một câu đối khác:
Thôi cũng đừng cõng rắn cắn gà nhà, phong lưu chú Bát, phú quý dì Tư, mây nổi đã từng qua trước mắt
Có thể nói, cũng như các nhà thơ thuộc khuynh hướng hiện thực tố cáo giai đoạn này, Nguyễn Khuyến đã bám vào hiện tượng cụ thể để đả kích. Từng con người, từng hiện tượng và những sự việc lố lăng trong xã hội đều bị vạch trần và thể hiện rõ phong cách độc đáo của ông.
2.3.Ðối với khoa danh, khoa giáp thời ấy:
Cũng bị lên án khắc nghiệt vì những tên quan lại đều xuất thân từ khoa bảng nhưng khoa bảng lúc bấy giờ lại mục nát, suy đồi. Nho sĩ không còn sĩ khí, uy thế như xưa nữa. Thế nhưng nhà Nguyễn nẫn cố duy trì ba kỳ thi: Thi Hương , thi Hội, thi Ðình nên đã sinh ra những ông Nghè, ông Cống. Vì vậy, sự tương phản càng rõ nét.
Nguyễn Khuyến phê phán nhân tài của xã hội chỉ là những người không ra gì. Có danh nhưng không thực. Mặc dù:
Nhưng ông lại tiếc rẻ:
Ấy thế còn ra dáng đường bệ:
Bài thơ gợi ra mối liên tưởng tới thân phận những kẻ khoa bảng, bọn quan lại ở thời kỳ nước mất, nhà tan. Ðạo nho sắp đến ngày mạt vận đang cơn hấp hối nhưng nhà Nguyễn vẫn cho diễn lại cái trò lều chõng thêm vài chục năm để đào tạo tiếp tay sai phục vụ cho bộ máy bù nhìn của chúng.
Ông mai mỉa cảnh khoa cử suy đồi, đạo đức của kẻ siõ bị đánh mất trước tiền tài và danh vọng. Bài thơ Thầy đồ ve gái goá là một ví dụ tiêu biểu:
3.1. Lòng yêu thiên nhiên và cảnh vật Việt Nam:
Nguyễn Khuyến cáo quan về quê nhưng ông không hề thoát ly hiện thực. Lúc nào ông cũng say sưa chan hoà với quê hương. Cảnh sắc được ông miêu tả hết sức chân thật và sống động.
- Tả cảnh bốn mùa, đặc biệt là cảnh mùa thu thật sắc sảo, đậm nét. Cảnh mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến không hề ước lệ, trang trọng, khuôn sáo như trong văn chương, sách vở mà chỉ là những cảnh gần gũi, quen thuộc như trời thu, gió thu, ao thu, trăng thu, lá thu … được tác giả thi vị hoá hết sức tài tình. Ba bài thơ Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh đã gợi được cái hồn, cái thần, cái tinh tế của cảnh vật màu thu, là ba bức tranh đặc sắc về cảnh nông thôn nước ta, nhất là cảnh đồng chiêm trũng miền Bắc.
- Nguyễn Khuyến còn những bài thơ tả cảnh hè (Ðêm mùa hạ) và cảnh xuân (Ngày xuân) rất độc đáo.
- Những bài tả cảnh núi (Vịnh núi An lão), cảnh chùa (Về chơi chùa Ðọi) đều trở thành những danh lam thắng cảnh của đất nước.
Nguyễn Khuyến nhìn cảnh vật bằng cặp mắt của người thưởng ngoạn và bằng tâm hồn của thi nhân nên trước vẻ đẹp của đất nước đã vẽ lên một bức tranh nghệ thuật tuyệt đẹp. Cảnh sông, núi, trăng, sao, thời tiết, mùa màng qua cảm nhận của ông đều trở nên có hồn và tinh tế.
3.2. Tình cảm của Nguyễn Khuyến:
3.2.1 Trước những nỗi điêu linh thống khổ của nhân dân:
Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nông thôn nên viết về nông thôn bằng tất cả tình cảm thân thuộc quyến luyến. Có thể nói, trái tim ông đã rung lên cùng một nhịp với trái tim của người lao đôïng nghèo.Ôâng đã sống với tâm trạng của họ, vui với cái vui của họ, buồn với cái buồn của họ và mơ ước cái họ từng mơ ước. Vì vậy, ông có những vần thơ xuất phát từ tình cảm chân thành của mình thể hiện tâm trạng nhà thơ lúc nào cũng gắn bó với nhân dân:
Dịch nghĩa:
Bài thơ đã ghi nhận những chi tiết sinh động và chính xác về bức tranh của cuộc sống.
Ngoài những lo toan tính toán vì công nợ của nhà nông:
Bức tranh nông thôn của Nguyễn Khuyến còn phản ánh những sinh hoạt khác như tâm trạng vui vẻ của người nông dân vào những ngày tết được mùa được ông ghi nhận:
Hoặc cái buồn của cảnh chợ tết vào những năm mất mùa đói khổ:
3.2.2. Tình cảm đối với gia đình, bạn bè làng xóm:
Ông sống rất chan hoà với gia đình, bạn bè, làng xóm. Những tình cảm tưởng chừng như bình thường ấy đã đi vào thơ Nguyễn Khuyến với một giá trị chân thật, đáng quý.
- Ðối với vợ, ông có tình cảm yêu kính rất đậm đà Câu đối khóc vợ là một tiếng khóc chân thành của ông đối với vợ.
-
- Ðối với con,ông rất thương yêu và quý trọng các con. Lo lắng khuyên nhủ các con sống làm người hữu ích cho xã hội, thấy các con lơ là việc đèn sách, ông khuyên bảo rất chí tình:
Dịch nghĩa:
- Ông không chỉ viết về gia đình mà còn làm câu đối, làm thơ để tặng bác thông gia, bác hàng xóm, một anh hàng thịt, một chú thợ nhuộm, thợ rèn… Bài nào cũng chân tình giản dị.
- Ông còn viết thơ thăm hỏi bạn bè, bỏ hết những khuôn sáo cầu kỳ, lời thơ xuúat phát từ tấm lòng thành của ông (Khóc Dương Khuê, Nước lụt thăm bạn … ). Trước cái chết của bạn, Nguyễn Khuyến làm thơ thể hiện tâm trạng đau xót của mình:
III.NGHỆ THUẬT THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN:
1.1. Ðặc điểm chung:
Ngôn ngữ thơ Nguyễn Khuyến rất phong phú không những trong cách nói mà còn rất mỹ lệ, gợi cảm trong cách miêu tả.
Nguyễn Khuyến còn có biệt tài khai thác khả năng diễn tả của từ ghép rất độc đáo:Thấp le te, đóm lập lòe, tẻo teo, ve ve, tênh nghếch, làng nhàng, khỏe khoe…
Nhiều danh từ, những cách nói, những thành ngữ, tục ngữ được dùng ở nông thôn được ông sử dụng khá thành thạo: xôi bánh trâu heo, anh em làng xóm,văn dai như chão, người ba đấng, của ba loài.
Ông có làm một bài thơ cùng tên với câu tục ngữ dân gian Nhất vợ nhì trời để lý giải vì sao như vậy:
Ông tiếp tục truyền thống học tập ca dao, tục ngữ của những nhà thơ Nôm các thế kỷ trước, nhưng ông có lối sáng tạo riêng.
Ca dao có câu Gái có chồng như gông đeo cổ thì nhà thơ làm bài thơ Muốn lấy chồng phát triển cái tứ ngược lại:
1.2. Ngôn ngữ trào phúng:
Ngôn ngữ trào phúng của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng hóm hỉnh, nhiều cung bậc. Trào phúng của Nguyễn Khuyến có nét riêng không giống như Hồ Xuân Hương hay Tú Xương là đánh một cái cho biết. Cái cười của ông đối với kẻ thù tuy có cay nhưng không độc địa bốp chát, mặc dù ông ông có so sánh cờ nước Pháp với váy phụ nữ:
Ông có biệt tài, cường điệu và chơi chữ rất tài tình:
Hoặc cái dí dỏm của câu đối tết viết dùm người hàng thịt:
Các bài thơ tiêu biểu: Than già, Bác đến chơi nhà, Tự trào, Bóng đè cô đầu, Tạ lại gnười cho hoa trà, Lấy tây, Ðùa chế ông đồ Cự Lộc, Câu đối tết… đều là những vần thơ trào phúng độc đáo của Nguyễn Khuyến.
1.2. Ngôn ngữ tả cảnh:
Nguyễn Khuyến rất thành công trong việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Thơ du vịnh và thơ bốn mùa không chỉ tả cảnh mà còn miêu tả tâm trạng của nhà thơ.
Ngôn ngữ tả cảnh rất chính xác, cách chọn chữ , dùng từ thích hợp, từ ngữ thường lấp láy giàu nhạc điệu, có khả năng gợi tả cao.
Sử dụng vốn ngôn ngữ bình dân nhưng không hề rơi vào sự thông tục hóa, cảnh nào cũng được vẽ, được chạm khắc thần tình đạt đến mức nghệ thuật.
Hình ảnh sử dụng thường đơn sơ, khêu gợi thể hiện qua những chi tiết thật bình dị, sống động. Nó có giá trị nâng các câu thơ làm tăng sức biểu cảm. Hình ảnh hoa nở, trăng trôi, chiếc thuyền thấp thoáng, bé tẻo teo, ngõ trúc quanh co, thấp le te, đóm lập lòe… đầy sức sống.
Thơ ông có sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và màu sắc gợi cảm giác vừa xem tranh thủy mặc vừa nghe thơ Ðường.
Aâm thanh của tiếng muỗi, tiếng dế, tiếng gnỗng, tiếng trâu thở, tiếng hạc bay, tiếng chó sủa, tiếng sóng vỗ đã lột tả được đặc điểm của ngoại cảnh và tâm lý:
Màu sắc tuyệt diệu có khả năng gợi tả cao: Màu xanh của nước, màu xanh của trời, xanh, xanh của ngọc, xanh của tre, xanh của bèo, màu đỏ hoe của mắt, màu sương chiều, màu sáng của trăng đã tạo nên màu sắc đậm nhạt, mờ ảo thanh đạm, lặng lẽ. Làn ao lóng lánh bóng trăng loe dễ gây ấn tượng thị giác.
Nguyễn Khuyến là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh nhất là trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam vì những cảnh, người, vật qua cảm nhận của ông đều đậm đà phong vị của quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến đã có những cống hiến quan trọng làm cho ngôn ngữ đi sát với đời sống và ông đã thành công trong việc chuyển cái tinh túy của đời thường thành thơ.
IV.KẾT LUẬN:
Nguyễn Khuyến là nhà thơ có tài năng về nhiều mặt. Thơ trào phúng của ông bao giờ cũng tự nhiên, tươi tắn tạo nên những nụ cười nhẹ nhàng, thanh nhã, ý vị; Thơ tả cảnh tả tình có cái nhẹ nhàng, mềm mại thanh thoát, ý tứ gần gũi, chất liệu lấy từ cuộc sống nông thôn.
Nguyễn Khuyến đã thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông xứng đáng là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam.